123b ca
mu88 motocollection
cách đánh lô xiên 2 trên kubet
good88 team
123b ca
mu88 motocollection
cách đánh lô xiên 2 trên kubet
good88 team

nhà cái f8bet nhà cái f8bet

$834

Sở hữu xã hội chủ nghĩa hay còn gọi là công hữu XHCN và vai trò của nó trong việc thực hiện các mục

Quantity
Add to wish list
Product description



  Sở hữu xã hội chủ nghĩa hay còn gọi là công hữu XHCN và vai trò của nó trong việc thực hiện các mục tiêu của CNXH

  Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho rằng: Giai cấp vô sản làm cách mạng vô sản thắng lợi thì phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa (TBCN) và thiết lập chế độ công hữu hay công cộng hoặc sở hữu xã hội. Tư tưởng về sự xác lập chế độ công hữu theo C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản  đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”(2). Hai ông hy vọng và tin tưởng rằng, trong chế độ công hữu mọi người sẽ bình đẳng với nhau trong sử dụng TLSX để nuôi sống mình, do đó sẽ không còn sự phân chia xã hội thành giai cấp.

  C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen đã phác họa những đặc trưng cơ bản của chế độ công hữu như sau: 1- Đất đai và các TLSX nhân tạo đã tích lũy được của xã hội phải được sử dụng chung một cách có tổ chức theo kế hoạch của cơ quan quản lý sản xuất là nhà nước vô sản; 2- Mục tiêu của thiết lập chế độ công hữu, của xã hội hóa TLSX là “để tăng thật nhanh số lượng những LLSX”; 3- Trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội công dân có nghĩa vụ: Phải lao động, có trách nhiệm tự quản (liên kết những người tự chủ), xã hội không dung thứ bóc lột, tức không lao động mà có thu nhập và hưởng phúc lợi xã hội, thực hiện giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em; xóa bỏ việc sử dụng trẻ em làm trong các khu công xưởng như hiện nay; kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất, nông nghiệp với công nghiệp, làm mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn.

  Từ đây có thể thấy, thiết lập sở hữu xã hội/công hữu về TLSX không phải là mục tiêu của công cuộc xây dựng XHCN, mà mục đích của việc thiết lập, phát triển sở hữu xã hội/công hữu... là tạo cơ sở, nền tảng để phát triển LLSX, gia tăng của cải vật chất của xã hội; giải phóng con người khỏi mọi quan hệ ràng buộc, và phát huy nhân tố con người; xây dựng một xã hội ấm no, hạnh phúc, văn minh. Đây chính là mục tiêu của xã hội XHCN mà các quốc gia đi theo con đường XHCN đang hướng tới.

  Sở hữu XHCN không phải là mục tiêu của xây dựng CNXH, mà chỉ là cơ sở, điều kiện để xây dựng CNXH, có vai trò (tác động tích cực) trong việc hình thành và thực hiện các mục tiêu cơ bản của CNXH. Đó là:

  Thứ nhất, xóa bỏ tư hữu TBCN, thiết lập quan hệ sở hữu XHCN sẽ tạo điều kiện cho xã hội “đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước... và để tăng thật nhanh số lượng những LLSX”(3); có nghĩa là thiết lập quan hệ sở hữu XHCN phải nhằm làm cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động giành lấy toàn bộ LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển mạnh mẽ hơn; thúc đẩy tăng năng suất lao động của xã hội nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên xã hội.

  Thứ hai, sở hữu XHCN tạo điều kiện để tiến hành công nghiệp hóa XHCN nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Công nghiệp hóa (CNH) và xây dựng nền đại công nghiệp với tính cách là nền tảng kinh tế, là cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng của công cuộc xây dựng CNXH. V.I.  Lê-nin kế thừa tư tưởng của C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen, sau Cách mạng Tháng Mười đã chỉ rõ: Để chuyển lên CNXH là phải phát triển kinh tế “nâng cao năng suất lao động trên phạm vi cả nước”; Nhà nước mạnh và nền sản xuất với năng suất cao là điều kiện vật chất để bảo đảm thiết lập CNXH. V.I.  Lê-nin đã nêu ra luận điểm (công thức): Chủ nghĩa cộng sản (CNCS) là chuyên chính vô sản cộng với điện khí hóa toàn nước Nga. Trong luận điểm này, chuyên chính vô sản (CCVS) là chủ đạo, là cơ sở và điều kiện chính trị quyết định của quá trình phát triển CNXH, còn đại công nghiệp với trình độ điện khí hóa (trình độ tiên tiến lúc bấy giờ là cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH). Theo V.I.  Lê-nin, vấn đề sống còn của CNXH là vấn đề CCVS được thiết lập, được tăng cường ra sao và nền tảng vật chất - kỹ thuật, nền đại công nghiệp, điện khí hóa được tạo ra như thế nào? Bởi vì, CNXH được thiết lập ở một nước nông nghiệp lạc hậu, cái thiếu nhất, và do đó cái cần thiết là LLSX đại công nghiệp, là nền tảng kinh tế của CNXH, là cơ sở duy nhất tạo ra năng suất lao động cao, nhờ đó có thể chiến thắng được CNTB.

  Thứ ba, sở hữu XHCN tạo tiền đề, điều kiện để giải phóng con người và phát triển con người toàn diện. Giải phóng con người trước hết là phải kể đến vấn đề giải phóng con người khỏi sự tha hóa lao động - một thứ lao động cưỡng bức lệ thuộc vào những ông chủ tư hữu TLSX, một thứ lao động bị lệ thuộc vào máy móc như C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen nói tới trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Con đường giải phóng con người là khắc phục sự tha hóa của lao động, nghĩa là xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN. Sự phát triển toàn diện của con người là một quá trình tiến bộ không ngừng gắn với sự phát triển của LLSX. Chỉ khi LLSX phát triển đến một trình độ cao nhất định, khi mà không còn tình trạng người bóc lột người, giai cấp này bóc lột giai cấp khác và “coi trọng phát triển giáo dục” và “kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất” thì khi đó con người mới phát triển toàn diện.

  Từ đây, có thể khẳng định rằng: Chế độ công hữu XHCN không phải là mục tiêu của xây dựng CNXH ở nước ta, nó chỉ là hình thức, hay phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội, phát triển LLSX hiện đại và là cơ sở, nền tảng để kiến tạo thượng tầng kiến trúc và chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

  Thực tiễn xây dựng và phát triển chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất ở các nước XHCN trước đây chứng tỏ sở hữu XHCN không phải là mục tiêu của xây dựng CNXH

  Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, CNXH đã trở thành một hệ thống thế giới và là xu thế phát triển của thời đại “quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH’’ và trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người’’ mà Liên Xô là trụ cột. Trong bối cảnh đó, toàn bộ tư duy lý luận về đường lối xây dựng CNXH ở các nước XHCN, trong đó có Việt Nam là dựa vào lý thuyết về sự quá độ lên CNXH ở Liên Xô và các nước XHCN trước đây. Lý luận về thời kỳ quá độ (TKQĐ) đi lên CNXH khi đó đã khẳng định: Đây là thời kỳ mà nền kinh tế dựa trên sự thống trị tuyệt đối của chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, dưới hai hình thức sở hữu: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, gắn với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Trong một nền kinh tế “thuần khiết” XHCN như vậy, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ... đều bị coi là phi XHCN, phải thực hiện cải tạo XHCN.

  Tư duy lý luận về xây dựng CNXH theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu cho rằng, QHSX có thể đi trước LLSX để hướng dẫn, mở đường và thúc đẩy LLSX phát triển. Vì thế, chúng ta đã chủ trương nhanh chóng xây dựng chế độ công hữu XHCN với hai hình thức sở hữu: Toàn dân và tập thể, phủ nhận sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân, xác lập độc quyền kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Đây có thể coi là sai lầm trong tư duy lý luận và thực tiễn về xây dựng CNXH từ một nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển; đây cũng coi là sự vi phạm quy luật “QHSX phải phù hợp với trình độ nhất định của LLSX”. Quy luật này khẳng định vai trò của LLSX trong mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX. Nói cách khác, LLSX quyết định tính tương thích đối với QHSX, trong QHSX thì quan hệ sở hữu là cốt lõi và chi phối.

  Trong lý thuyết kinh tế XHCN truyền thống, chế độ sở hữu tư nhân là cái đối lập với chế độ công hữu XHCN, là yếu tố phi XHCN, nên trong mô hình CNXH kiểu cũ, nhà nước áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để thu hẹp, tiến tới xóa bỏ sở hữu tư nhân về TLSX. Tuy nhiên, sở hữu tư nhân về TLSX, kinh tế tư nhân gắn liền với nó vẫn tồn tại dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Đây là việc làm trái với quan điểm của C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen, rằng: quá trình xóa bỏ sở hữu tư nhân TBCN không phải là quá trình phủ định sạch trơn mọi quan hệ sở hữu, mà là quá trình xóa bỏ sự đối lập gay gắt giữa hai cực: “Tư bản” và “Lao động”. C.  Mác viết: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng  sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”(4).

  Đó cũng là sự nóng vội, chủ quan, duy ý chí, không thấy được việc xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN là một quá trình lâu dài không thể nóng vội. Trong “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, trả lời câu hỏi liệu có thể thủ tiêu chế độ tư liệu ngay lập tức được không? Ph.  Ăng-ghen đã trả lời: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu... sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”(5).

  C. Mác cũng đã nhấn mạnh, giải quyết vấn đề xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân TBCN và xây dựng chế độ công hữu XHCN là một quá trình lâu dài phải dựa trên những điều kiện hiện thực và kết quả hoạt động hiện thực trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan. Ông viết “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những LLSX mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những QHSX mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”(6). Đó là việc làm vi phạm quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX, điều quan trọng hơn là đã gây nên những lãng phí to lớn các nguồn lực phát triển và tạo ra lực cản của sự phát triển.

  Trong những năm trước đây cũng tồn tại các quan niệm cho rằng, sở hữu toàn dân phải có hiệu quả hơn sở hữu tập thể và sở hữu tập thể phải có hiệu quả hơn sở hữu tư nhân. Từ đó, trong thực tiễn ở các nước XHCN, người ta đã đồng nhất chế độ công hữu với CNXH, và có ảo tưởng rằng, công hữu càng lớn, càng nhanh chóng có CNXH. Vì thế, người ta đã cố gắng bằng mọi cách gia tăng sở hữu xã hội/công hữu, dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, chưa chú ý đúng mức hoặc lúng túng, bất cập trong việc thực hiện tốt các quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối lưu thông sản phẩm.

  Hậu quả là sự phát triển thấp kém cả về kinh tế và mức độ cải thiện đời sống của nhân dân. Để giải toả sự thấp kém này, người ta đã nỗ lực gia tăng đầu tư vào các yếu tố vật chất của LLSX, chủ yếu theo chiều rộng, phát triển sản xuất theo chiều rộng dựa trên cơ sở khai thác các nguồn lực tự nhiên và sức lao động. Rõ ràng là cách thức đó không thể mang lại kết quả như mong muốn. Vì vậy, trong thực tế, việc quan tâm quá mức đến quan hệ sở hữu, phát triển các hình thức sở hữu vượt quá trình độ xã hội hóa thực tiễn, chính là việc “tạo ra quan hệ sản xuất tiên tiến giả tạo” so với trình độ phát triển của LLSX.

  Thực tiễn của Trung Quốc và một số nước XHCN khác đã chứng minh, chế độ công hữu ít nhất có hai dạng: Một là, chế độ công hữu trong suốt thời kỳ dài không có lợi ích và hiệu quả; hai là, chế độ công hữu có lợi ích và hiệu quả. Như vậy, không thể đánh dấu bằng giữa chế độ công hữu và CNXH. Có chế độ công hữu chưa hẳn đã có CNXH. Ở Trung Quốc, trước khi cải cách, mở cửa, chế độ công hữu chiếm trên 99% nền kinh tế quốc dân, vậy mà nước yếu, dân nghèo. Sau khi bước vào cải cách, mở cửa, Đảng và Nhà nước Trung Quốc đã điều chỉnh cơ cấu chế độ công hữu quá đơn nhất, cho phép nền kinh tế phi công hữu phát triển, giảm một cách đáng kể tỷ trọng chế độ công hữu, đặc biệt là nền kinh tế quốc hữu. Biện pháp này đã thúc đẩy LLSX phát triển, tăng cường sức mạnh của nền kinh tế quốc dân, đời sống nhân dân nâng cao rõ rệt... Và như Trung Quốc nói là, vẫn giữ được CNXH hoặc gần với CNXH.

  Ở Việt Nam, những đột phá về kinh tế “giải phóng lực lượng sản xuất”, mà tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra”, thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa IV, tháng 8-1979; trong Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13-1-1981, của Ban Bí thư, về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định số 25/CP, ngày 21-1-1981, của Hội đồng Chính phủ, về “Một số chủ trương và biện pháp nhằm chủ động sản xuất, kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh” và Quyết định số 26/CP, ngày 21-1-1981, của Hội đồng Chính phủ, về “Việc mở rộng hình thức trả lương, khoán lương sản phẩm và vận dụng các hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của nông nghiệp”. Có thể coi đây là sự “đột phá đầu tiên’’ trong việc thay đổi chủ trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế, với ý nghĩa là khắc phục những khiếm khuyết, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo XHCN, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những rào cản để LLSX phát triển... Và thực tế, từ sau Hội nghị Trung ương 6 khóa IV đến nay đã đưa đến chân lý “bung ra”, “mở cửa”, “cởi trói” không phải là làm mất CNXH, mà ngược lại, nó cứu nguy cho nền kinh tế, cải thiện đời sống cho nhân dân.

Related products